Oliver Lodge
1874 - Ernst W. Siemens là người đầu tiên thí nghiệm và mô tả hoạt động của một cuộn dây kim loại trong từ trường và được kích thích để nó có thể di chuyển dọc trục. 20/1/1874 ông đã đăng kí xin cấp bằng sáng chế Hoa Kỳ cho một "thiết bị điện từ" khi giải thích sự chuyển động cơ học của một cuộn dây điện cảm khi cho dòng điện truyền qua. 14/4/1874 ông được cấp bằng sáng chế số 149.797. Tuy nhiên, ông đã không sử dụng thiết bị của mình để truyền phát âm thanh. Cũng như Alexander G. Bell, người được cấp bằng sáng chế cho điện thoại vào năm 1876. 14/12/1877, Siemens đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế của Đức số 2355, cho màng mỏng không từ tính sử dụng như bộ tản âm thanh của một khung dây quay. Chiếc loa đầu tiên trên thế giới có hình côn hơi loe, giống y như chiếc kèn trumpet. Đây là bằng sáng chế đầu tiên cho kèn loa được sử dụng bởi hầu hết người chơi máy hát đĩa trong kỷ nguyên âm thanh. Bằng sáng chế Đức của ông đã được cấp vào 30/7/1878 và bằng sáng chế Anh số 4685 cấp vào 1/2/1878.
1898 - Oliver Lodge nộp đơn xin cấp bằng sáng chế số 9712 của Anh vào 27/4/1898 cho một sự cải tiến loa với các miếng đệm không từ tính để giữ khoảng cách không khí giữa hai cực bên trong và bên ngoài của bộ chuyển đổi từ khung dây từ. Đây là cùng năm anh nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho bộ thu sóng radio nổi tiếng của mình. Một mô hình loa của ông nằm trong Bảo tàng Khoa học Anh ở South Kensington. Sự cải tiến này sau đó đã được Pridham và Jensen tuyên bố trong ứng dụng Magnavox cho bằng sáng chế số 1.448.279 nộp vào 28/4/1920, và cấp ngày 13/3/1923.
1901 - John Stroh hoàn thiện màng loa giấy bằng cách gắn màng loa giấy vào một vành gân có rãnh, mà bây giờ ta gọi là gân loa. Ông nộp cho bằng sáng chế số 3393 của Anh vào 16/2/1901, cấp 14/12/1901. Nhờ có gân loa, màng loa được nâng đỡ tốt hơn, di chuyển dễ dàng và uyển chuyển hơn.
1908 - Anton Pollak (Mỹ) đã công bố một số cải tiến về kết cấu nam châm của loa, đồng thời ông thêm vào một vành giấy xếp, đỡ ở phía dưới côn loa (gọi là nhện loa). Ông nộp cho bằng sáng chế Hoa Kỳ số 939.625 vào 7/8/1908, cấp 9/11/1909. Như vậy với gân loa và nhện loa, màng loa từ đây đã được định vị chắc chắn mà vẫn linh hoạt và mềm mại giúp tái tạo âm thanh được tốt hơn.
1911 - Edwin Pridham và Peter Jensen (Mỹ) đã sáng chế ra chiếc loa điện động hoàn hảo đầu tiên trên thế giới với thương hiệu Magnavox, chiếc loa này không sử dụng nam châm vĩnh cửu mà dùng một nam châm điện để tạo từ trường cho loa. Rất nhiều hãng sản xuất loa của Mỹ cũng sử dụng nguyên lý tạo từ trường như loa Magnavox.
1915 - Harold Arnold bắt đầu chương trình tại Bell Labs để cải thiện việc ghi âm. Ưu tiên hàng đầu là amply sử dụng bóng đèn điện tử, thứ hai là micro và thứ ba là loa với sự cải tiến các bộ phận "bộ thu dạng lõi điện ứng cân bằng" được phát triển cho địa điểm công cộng. Sau WWI, J. P. Maxfield đã lãnh đạo dự án này và sản xuất loa cuộn điện động vào năm 1925. |
1925 - Tài liệu nghiên cứu của Chester W. Rice và Edward W. Kellogg tại General Electric rất quan trọng trong việc thiết lập nguyên lý cơ bản giữa màng loa với cuộn dây kích từ khiển trọng đặt ở vách ngăn với dải tần trung bình rộng đáp ứng thống nhất. Edward Wente tại Bell Labs đã độc lập phát hiện ra nguyên tắc tương tự này, đã nộp bằng sáng chế số 1.812.389 vào 1/4/1925, cấp 30/6/1931. Bài báo Rice-Kellogg cũng xuất bản một thiết kế khuếch đại có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng công suất truyền tới loa. 1925 - Máy ghi âm âm thanh Victor Orthophonic với kèn tán âm (folded exponential horn) mà sau này được sử dụng làm mô hình cho loa Klipsch của thời đại hi-fi. Trong cùng năm, Orthophonic phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các máy ghi âm hoàn toàn bằng điện với một bộ thu điện cơ, bộ khuếch đại ống chân không và loa điện động, như Brunswick Panatrope được bán bởi Công ty Brunswick-Balke-Collender. |
1926 - Một bước ngoặc trong công nghệ tái tạo âm thanh với thành công của Western Electric. Tại Bell Labs, Wente và Thuras đã thiết kế loa Western Electric 555-W có đường kính họng loa là 1 inch. Chúng được ghép nối với một kèn WE 16A; nó có khả năng phát tần số 100-5000 hz. Tạo nên một chiếc loa kèn toàn dải hoàn chỉnh với độ nhạy cao đến 105 dB trình diễn cùng ampli đèn 205 D danh tiếng ( công suất ampli vỏn vẹn chỉ có 2 W). |
1928 - Herman J. Fanger nộp bằng sáng chế số 1.895.071 vào 25/9/1928, cấp 24/1/1933, mô tả cái được gọi là loa đồng trục, bao gồm một chiếc kèn tần số cao có màng loa riêng được lồng bên trong hoặc ở phía trước của loa hình nón lớn, dựa trên nguyên tắc diện tích biến đổi làm cho hình nón trung tâm cứng đối với tần số cao và hình nón bên ngoài linh hoạt và có độ trầm cao cho tần số thấp hơn.
1929 - J. D. Seabert của Westinghouse đã phát triển một loại loa có kèn hướng âm thanh lời nói của con người về phía khán giả tốt hơn loa hình nón trong toàn bộ nhà hát. Những chiếc kèn có vách ngăn định hướng này có độ mở 3 ft x 4 ft và khác với kèn họng nhỏ.